Một vài nhận định về hệ tín chỉ và công tác cố vấn học tập

Một buổi hoạt động CLB sinh viên báo chí, chủ yếu là sinh viên năm thứ 2 và năm thứ 3. Đây là một nỗ lực để kết nối các thành viên trong không gian tín chỉ.

Hà Nội, 28/11/2010

Trong tham luận lần này, tôi muốn được phát biểu với ba tư cách: thứ nhất, là một người từng giữ vai trò trợ lý trong việc soạn thảo chương trình tín chỉ của Khoa Báo chí và Truyền thông trong những ngày đầu chuyển đổi. Thứ hai là một cố vấn học tập. Thứ ba là một giảng viên.

Đầu tiên, tôi phải khẳng định rằng ngay từ đầu, tôi luôn ủng hộ việc chuyển đổi từ niên chế sang tín chỉ. Theo tôi, sự chuyển đổi này giống như một nỗ lực mà dù có thất bại cũng khó có thể để lại hậu quả tệ hơn. Tôi tin rằng mình là một trong số không nhiều thành viên của trường đã ủng hộ sự chuyển đổi này ngay từ những ngày đầu. Khi đó, tôi thấy rằng đa số mọi người không ủng hộ bởi không ít người cho rằng hệ đào tạo mới sẽ làm tình hình xấu đi. Nói cách khác, hình như lúc đó mọi người cùng chia sẻ một tiền giả định là hệ niên chế lúc đó vẫn đang khá ổn.Tôi lại cho rằng đó là một tiền giả định sai lầm. Hệ niên chế cần được thay đổi và bắt buộc phải thay đổi, bởi nếu cứ duy trì cách học cũ thì rất có thể một ngày nào đó trường ta sẽ không còn sinh viên mà dạy nữa.

Tôi nhắc lại chuyện này là để chia sẻ với mọi người sự trân trọng và ghi nhận của tôi đối với những cán bộ Phòng đào tạo (tôi vẫn nhớ gương mặt nhăn nhó của thầy Phạm Gia Lâm và anh Đinh Việt Hải mỗi khi bàn về vấn đề tín chỉ). Họ là những người đã đối diện với đám đông, dám mắc lỗi, kiên trì học hỏi, kiên trì thay đổi, và  kiên trì giải thích để có được một sự chuyển đổi khá rõ rệt, trước hết và chủ yếu là về mặt hình thức, giữa hai hệ đào tạo. Sự chuyển đổi về mặt bản chất, về mặt nội dung, thẳng thắn mà nói, không nằm trong trách nhiệm, cũng như khả năng của phòng đào tạo. Đó là công việc lâu dài của toàn trường và tôi tin theo thời gian, vì sự sinh tồn, sẽ dần dần diễn ra.

Tôi cũng phải nói rõ rằng sự trì trệ của hệ niên chế không đến từ bản thân đặc trưng của hệ đào tạo này (nhiều nơi vẫn duy trì phần nào cách đào tạo này, ví dụ,Oxford), mà đến từ việc tại nơi tôi làm việc, không ai chịu ra đối diện với sự thay đổi cho tới khi bị bắt buộc. Vì thế, giống như đa số những dấu mốc phát triển ở ViệtNam, sự thay đổi ở đây lại không mang tính tiến hóa (evolution) mà lại là tính cách mạng (revolution). Chính tính cách mạng này làm lộ ra nhiều sự bất cập không thể né tránh của quá trình chuyển đổi, ví dụ như sự thiếu chuẩn bị, sự va đập về quyền lợi và (đôi khi) sự nông nổi. Tuy nhiên, công tác chuyển đổi về cơ bản là không thất bại và tôi xin tiếp tục được góp sức vào quá trình này.

Xuất phát từ sự ủng hộ nêu trên, tôi xin được nêu vài góp ý nhân cuộc thảo luận lần này. Mặc dù những ý kiến của tôi có thể nông nổi, trực ngôn và đôi khi bi quan, nhưng nó đều xuất phát từ một mong muốn có được sự thay đổi tích cực và sâu sắc dưới mái trường này.

Với tư cách một người trợ lý biên soạn khung chương trình tín chỉ của Khoa, tôi cho rằng, chúng tôi (tôi chỉ dám nói tới trường hợp của khoa tôi) đã bỏ lỡ cơ hội để tự cải tổ chương trình học của mình. Do hạn chế về năng lực và nhân lực, công việc soạn thảo khung chương trình mà tôi từng đảm nhiệm, về cơ bản, chỉ là một sự chuyển ngang không hơn không kém. Cụ thể chúng tôi đã:

– Thay vì sự bổ sung cho nhau một cách vừa vặn giữa lý thuyết và thực hành trong cơ cấu chương trình, chúng tôi mới chỉ đạt được sự cộng hợp rời rạc của các module, nơi mà lý thuyết không đủ mạnh để trở thành nền tảng cho thực hành, và vì thế, ý nghĩa của cả hai đều bớt đi đáng kể.

– Bỏ qua cơ hội chia tách khung chương trình thành các chuyên ngành khác nhau, để tận dung tối đa khả năng xếp lắp của các module, nhằm tiết kiệm sức lực giảng dạy và học tập cho cả giảng viên và sinh viên. Lý do của sai lầm này rất nhiều và có lẽ không nên bàn nhiều ở đây.

Tôi chỉ muốn đưa ra một yêu cầu rằng sau mấy năm thực hành tín chỉ, có lẽ đã tới lúc chúng ta ngấm được cái hay, cái dở của hệ tín chỉ, nhận ra những sai lầm đã mắc phải. Đây là lúc chúng ta cần có một cơ hội để tái chỉnh sửa khung chương trình cho phù hợp. Tôi tin rằng vì lý do sinh tồn, việc này sớm muộn sẽ xảy ra, dưới hình thức này hay hình thức khác.

Với tư cách một cố vấn học tập, tôi thấy những vấn đề sau đây:

– Thứ nhất, không thể cố vấn cho sinh viên trên cơ sở một chương trình học không hợp lý. Chẳng hạn, nhiều sinh viên hỏi tôi: “Em muốn trở thành phóng viên truyền hình, vậy em nên thiết kế chương trình học cho mình ra sao?”. Tôi tất nhiên chỉ có thể trả lời rằng: “Em cứ việc học toàn bộ những môn báo in, báo ảnh, báo phát thanh, pr, quảng cáo. Bởi Khoa chúng ta không phân chuyên ngành, nên em cứ việc nuôi giữ cái mong muốn riêng của em, còn em vẫn phải học tất cả chứ chẳng có cách nào may đo được chương trình riêng cho em”. Rõ rằng, câu trả lời này chứng tỏ sự việc module hóa các môn học đã không đạt được ý nghĩa. Cũng từ câu trả lời này, tôi cho rằng việc tạo dựng các chuyên ngành hẹp trong Khoa là tất yếu và vô cùng hiệu quả cho chiến lược phát triển của Khoa.

– Thứ hai, công việc cố vấn học tập trước tiên phải là cố vấn về chiến lược học tập (mà như đã trình bày, tôi làm ko được hiệu quả lắm vì chương trình không hợp lý), sau nữa, là cố vấn về thái độ học tập. Chừng nào việc cố vấn chỉ dừng lại ở cố vấn kỹ thuật thì khó có thể đạt được hiệu quả. Sinh viên hiện nay (trên cơ sở sinh viên Khoa Báo mà tôi biết) có một thái độ học tập rất kém, mà theo tôi thì xuất phát tự việc các em không đủ tôn trọng việc học hành, và có thể một phần do sự rời rạc của các module. Về sự tôn trọng với việc học thì tôi không dám bàn ở đây vì quá rộng. Nhưng sự rời rạc của các module thì cần được khỏa lấp bằng một cách nào đó (tôi chưa nghĩ ra, mà chỉ làm một cách rất tự phát là thường xuyên trò chuyện và giục giã các em học tập – điều rất khó làm vì diện bao phủ của tôi quá hẹp).

Với tư cách một giảng viên, tôi cho rằng:

– Trình độ tự học của các em quá kém do hệ thống lý thuyết và phương pháp nghiên cứu mà chúng ta cung cấp cho các em (trường hợp khoa Báo) quá giáo điều. Đó nên gọi là lý luận chứ ko phải lý thuyết. Vì thế, hệ kiến thức các em thu nhận là một hệ khép kín, không có khả năng cởi mở và tự thu nhận cái mới. Nó cũng khép lại nhu cầu đặt câu hỏi, nhu cầu phê phán của các em. Điều này, một lần nữa, đến từ chương trình học thiếu hợp lý. Nó sẵn có từ hệ niên chế, nhưng tới hệ tín chỉ thì bộc lộ ra một cách rất rõ nét, khi các em bị bắt buộc phải tự chịu trách nhiệm cho việc học của mình.

– Hệ thống học liệu của chúng  ta quá kém. Các em không có thư viện đủ rộng, trong thư viện không có sách vở gì đáng kể. Tôi xin lưu ý rằng học liệu giáo viên đưa cho sinh viên hoàn toàn khác với học liệu phổ cập trong thư viện trường. Chỉ có học liệu được phổ cập bằng hệ thống thư viện mới khiến việc đọc trở nên bắt buộc và có tính sinh tồn cho quá trình học tập. Việc giáo viên đồng thời là người duy nhất có thể cung cấp học liệu khiến họ trở nên độc đoán và một chiều, giống như họ là nguồn duy nhất cung cấp tri thức vậy. Điều này rõ ràng làm thu hẹp năng lực tự làm chủ quá trình học tập của học viên cũng như là thui chột năng lực phê phán và truy vấn của sinh viên (do giáo viên là người áp đặt về nguồn sách).

Trên đây là những đóng góp của tôi rút ra từ một vài năm kinh nghiệm thao tác với hệ đào tạo này. Còn vô số những vấn đề khác mà tôi vẫn ấp ủ, nhưng xét tới sự bề bộn ngổn ngang mà trường ta cùng đang đối diện trong cuộc thay đổi này, tôi thấy những điểm cơ bản trên đây là tạm đủ. Xin chân thành cảm ơn.

This entry was posted in Về nghề giảng dạy. Bookmark the permalink.

Leave a comment